Các tác nhân tạo gel :

Có rất nhiều tác nhân tạo gel. Một trong số những tác nhân phổ biến nhất là cây keo (acacia), axit alginic, bentonit, carbopols (bây giờ được gọi là carbomer) carboxylmethyl cellulose, ethyl cellulose, gelatin, cellulose hydroxyethyl, cellulose hydroxypropyl, magie nhôm silicat (veegum) methyl cellulose, poloxamer (pluronics) polyvinyl alcohol, sodium alginate, tragacanth và xantha gum. Mặc dù mỗi tác nhân tạo gel có một đặc tính độc đáo riêng biệt, dưới đây là một số điểm khái quát chung :
Nếu các hóa chất tạo gel được cho và dung môi, nước, dung dịch một cách bừa bãi và không cẩn thận, khi đó nó sẽ tạo thành một lớp dày, đóng cục. Các phân tử bên ngoài của hóa chất tạo gel sẽ liên kết với lớp tiếp xúc đầu tiên là nước, dung môi ... và tạo thành một bề mặt cứng rất khó cho nó hòa tan. Đó gọi là hiện tượng đóng cục, bên ngoài dẻo, bên trong là bột và rất khó tan. Để hóa chất tạo gel và nước, dung dịch & dung môi tan hết thì mất rất nhiều thời gian. Một cách hiệu quả hơn là khuấy từ từ, chia nhỏ và đều các hóa chất tạo gel, phải luôn tay khuấy (có thể bằng máy hoặc bằng tay) đảm bảo độ tiếp xúc giữ hóa chất và nước, dung dịch cần khuấy càng nhiều càng tốt. Sử dụng glycerin như một tác nhân làm ướt hỗ trợ sẽ làm giảm thiểu việc đóng cục và khó hòa tan

Một số hóa chất tạo gel tan nhiều trong nước lạnh hơn trong nước nóng. Methylcellulose và poloxamers có khả năng hòa tan tốt trong nước lạnh trong khi betonit, gelatin và natri carboxymethyl cellulose có thể hòa tan nhiều trong nước nóng. Carbomers, tragacanth và gel axit alginic thì tan được trong nước ấm

Một số carbomer đòi hỏi môi trường hòa tan hóa chất phải được điều chỉnh thành môi trường trung hòa hoặc phải điều chỉnh pH để sau khi Carbomer hòa tan và có thể tạo gel được tốt

Hầu hết các hóa chất tạo gel cần từ 24 đến 48 giờ để hoàn toàn hòa tan và đạt được độ nhớt tối đa

Hóa chất gel được dùng từ 0.5% đến 10% tùy thuộc vào hóa chất gel & môi trường sử dụng

Công việc chế biến, sản xuất sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta cho thêm vào chất trợ trước khi gel được hình thành vì điều đó sẽ không cản trở việc hình thành gel sau này

Chỉ Cacbopol 934P, Methyl Cellulose, Methyl Cellulose Hydropropyl và hoa chat Sodium Carboxylmethyl Cellulose là có thể dùng để uống

Carbomer có tên gọi chung trong gia đình polymer là Cacbopol. Carbopols đầu tiên được sử dụng trong giữa những năm 1950. Như là một nhóm hóa chất dạng bột khô, có dạng dung dịch nước có tính axit (pH khoảng 3.0) Nó dày và trương nở ở nồng độ pH cao hơn (khoảng 5 đến 6) nó cũng trương nở trong dung dịch nước và tạo ra gel gấp 1000 lần khối lượng ban đầu ở dạng bột. Một số ví dụ về nhóm gel này là : 910, 934, 934P, 940, 941

Cách tốt nhất để thêm polime carbomer vào nước là dùng máy khuấy để khuấy nước, dùng rây để rây từ từ carbomer. Cách này sẽ ngăn ngừa vón cục. Sau khi tất cả bột carbomer đã được cho vào, chúng ta nên giảm tốt độ máy khuấy để tránh tình trạng tạo ra bong bóng trong sản phẩm.

Như đã đề cập ở trên, sau khi carbomer được cho vào nước và được phân tán, dung dịch sẽ có độ pH thấp. Hóa chất trung hòa sẽ được cho vào để tăng pH và tạo ra sự trương nở, sau đó gel sẽ được hình thành. Một số chất trung hòa là Natri Hydroxit, Kali Hydroxit và triethanol amine. Nếu hóa chất vô cơ được sử dụng để trung hòa, một loại gel ổn định tan trong nước được tạo thành. Nếu triethanol amine được sử dụng, một loại gel chịu được cồn nồng độ cao được hình thành. Để tăng độ nhớt cho gel, chúng ta có thể sử dụng propylen glycol hoặc hoa chat glycerin. Để giảm bớt độ nhớt cho gel, chúng ta có thể thêm chất điện giải

Các dẫn xuất cellulose (methyl cellulose, cellulose hydroxyethyl, hydroxypropyl cellulose, methylcellulose hydroxypropyl,carboxymethyl cellulose) là được sử dụng rộng rãi và phổ biến. Đối với các hóa chất trên, chúng có một số tính chất giống nhau nhưng mỗi chất lại mang một tính chất đặc trưng riêng biệt .